Đêm trước cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân 68

Thứ năm, 17/01/2008 00:00

(Cadn.com.vn) - 40 năm đã trôi qua nhưng cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968 vẫn luôn in đậm trong trái tim, khối óc của quân và dân nước ta, nhất là đồng bào, chiến sĩ miền Nam trực tiếp tham gia vào chiến dịch lịch sử này với biết bao kỷ niệm vui mừng, sung sướng, khó khăn, gian khổ và cả những lo âu, trăn trở, thậm chí là những đau thương, mất mát lớn lao không sao bù đắp được.

Tôi thoát ly gia đình, rời quê hương Điện Nam, Điện Bàn vào năm 1965, tham gia công tác tại Ban Tài mậu Đặc khu Quảng Đà. Những năm tháng đó, chiến trường Quảng Đà diễn ra ác liệt trên khắp các mặt trận. Sau khi Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, phong trào “diệt Mỹ” của bộ đội địa phương và dân quân du kích phát triển rộng khắp, nhất là Điện Bàn, Hòa Vang, Đại Lộc... Để phục vụ cho bộ đội và các lực lượng khác đủ lương ăn, vũ khí chiến đấu, thuốc chữa bệnh... những người làm công tác tài mậu chúng tôi phải ngày đêm lo vận động quyên góp, thu mua, cất giữ, vận chuyển. Đặc biệt, mỗi khi sắp có chiến dịch, những người làm công tác Tài mậu phải lo chuẩn bị trước đó rất nhiều tháng về lương thực và vũ khí. Vào những tháng đầu năm 1967, công tác chuẩn bị cho chiến dịch của quân và dân đã bắt đầu sôi động khắp các chiến trường và Ban Tài mậu Quảng Đà cũng không nằm ngoài cuộc. Hàng ngàn lượt dân công hỏa tuyến được huy động để vận chuyển lương thực, vũ khí về các địa điểm cần thiết chuẩn bị sẵn cho bộ đội ta.

Lúc bấy giờ, lực lượng An ninh Khu V cũng rộn ràng, khẩn trương và quyết liệt cả ở vùng hậu cứ lẫn trong nội ô với quyết tâm “Tất cả cho tổng công kích, tất cả cho tổng khởi nghĩa”, “Tất cả để đuổi Mỹ, lật ngụy giành chính quyền về tay nhân dân”, “Thiệu – Kỳ không đổ không giỗ, không Tết”... Tôi còn nhớ, vào khoảng tháng 7-1967, theo chỉ thị của Khu ủy V và Ban An ninh Khu V, Ban An ninh Quảng Đà đã quyết định thành lập lực lượng an ninh nội thành để làm nòng cốt cho việc tiếp quản Đà Nẵng sau này. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Thân Sự, Trưởng Ban An ninh Quảng Đà và đồng chí Hoàng Quốc Dân, Phó Ban phụ trách công tác điệp báo, công tác tuyển lựa được tiến hành nhanh chóng bằng việc kêu gọi, động viên, tuyển lựa những cán bộ, đoàn viên, thanh niên ở các ngành, đoàn thể, địa phương có phẩm chất chính trị tốt, gia đình có truyền thống cách mạng, có sức khỏe, tinh thần chiến đấu cao, hăng hái, dũng cảm và có kiến thức... để  hình thành một đại đội đưa đi huấn luyện, đào tạo. Tôi xung phong và được tuyển vào lực lượng này cùng với 120 đồng chí khác. Thế là đầu tháng 8-1967, tôi rời đơn vị Ban Tài mậu lên đường tập trung ở đơn vị mới tại địa điểm gần dốc Ông Thủ  (phía  Nam Giang, H. Giằng) để tham gia công tác  huấn luyện.

Dù anh em ở những vùng miền khác nhau, lần đầu mới gặp mặt nhưng chúng tôi đã nhanh chóng làm quen để cùng tham gia huấn luyện. Là đơn vị an ninh nội thành với nhiệm vụ làm công tác tiếp quản Đà Nẵng khi được hoàn toàn giải phóng nên mọi việc đều hoàn toàn mới mẻ. Chúng tôi được huấn luyện công tác tiếp quản các cơ sở, tài liệu của địch, công tác điều tra, bắt, giam giữ, quản lý các tên gián điệp, tình báo, ác ôn có nợ máu với nhân dân; công tác điều tra, thu thập hồ sơ, chứng cứ tội phạm và các bước cụ thể để mở các phiên tòa xét xử... Ngoài ra, việc tập luyện võ thuật, sử dụng thành thạo các vũ khí cũng là công việc không thể thiếu của những chiến sĩ an ninh nội thành chúng tôi. Dù khó khăn, gian khổ, thậm chí thiếu ăn, thiếu ngủ , ốm đau, bệnh tật, sốt rét rừng... nhưng không khí chuẩn bị chiến dịch sôi động đã làm cho anh em chúng tôi vượt lên tất cả để lao vào học tập và huấn luyện miệt mài để cho công việc sau này đạt được kết quả tốt nhất.

 Đồng chí Lê Thế Tiệm (bìa trái) bảo vệ đồng chí Hồ Nghinh - Thường vụ Khu uỷ Khu V đi thị sát tình hình địch lấn chiếm càn quét tại Quảng Đà

 

Thời gian nhanh chóng trôi đi và ngày G. đã cận kề. Đơn vị  được phổ  biến những công việc cụ thể và sẵn sàng cho ngày lên đường làm nhiệm vụ. Ngày 25 tháng Chạp năm Kỷ Mùi, Đại đội an ninh nội thành của chúng tôi được lệnh hành quân  tiến về đồng bằng. Rời rừng sâu để tiến về  giải phóng Đà Nẵng, giải phóng các thị trấn, thị tứ, giải phóng quê hương thoát khỏi ách kìm kẹp của kẻ thù là ước ao, là khát vọng lớn lao nhất sau bao nhiêu năm chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ  của đồng bào, đồng chí trên khắp các mặt trận toàn miền Nam và cả chiến trường miền Bắc thân yêu. Khi rời xa nơi đơn vị đóng quân, anh em chúng tôi  bịn rịn, nhớ thương nơi mình đã  gắn bó. Rồi các cuộc chia tay thầm lặng của người đi trước, người đi sau, hay người phải ở lại  để lo toan mọi công việc hậu cứ thật là lưu luyến và  xúc động biết nhường  bao dù đó chỉ là lời chào, cái bắt tay hay điếu thuốc, bát canh ngon trong bữa ăn đạm bạc..!

Đại đội chúng tôi rời hậu cứ ở gần dốc Ông Thủ xuống Khe Rèn, Gò Đu (thuộc Lộc Sơn, vùng B Đại Lộc). Cả đội hình hành quân lặng lẽ âm thầm, nhưng nhìn khuôn mặt ai ai cũng phơi phới niềm tin về một ngày mai quê hương hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Đến gần tối thì cả đội hình đại đội ra khỏi bìa rừng bắt đầu băng qua các cánh đồng. Lúc bấy giờ, quân Mỹ còn rất đông và chúng đều chốt chặn ở các điểm cao để quan sát, khống chế quân ta từ các vùng giáp ranh, nhằm phát hiện, tấn công lực lượng bộ đội và các ngành khác từ trên núi xuống hoặc từ đồng bằng lên.

Khi đại đội chúng tôi ra khỏi vùng giáp ranh hơn cây số thì địch phát hiện, ngay lập tức chúng kêu pháo bầy từ Núi Quế, Bồ Bồ, Đức Dục, Cấm Dơi, Núi Lở... bắn tới tấp vào đội hình suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Cả đại đội phải hứng chịu hàng ngàn quả pháo lớn các loại, nhưng chỉ được phép bám trụ tại chỗ mà không được rời bỏ đội hình tìm nơi ẩn nấp nhà dân gần đó, vì nếu làm vậy địch phát hiện sẽ bắn vào khu vực dân ngay lập tức.

Khi địch ngưng bắn pháo, tập hợp lại đội hình, chúng tôi phát hiện anh Lệ (người Đại Lộc) và anh Ba hy sinh tại chỗ, gần 10 anh em khác bị thương. Cả đại đội lo băng bó cứu chữa cho các đồng chí bị  thương và tiến hành chôn cất 2 đồng chí hy sinh, rồi nhanh chóng hành quân tiếp xuống Đại Phước để củng cố đội hình. Có thể nói, cuộc tập kích bằng pháo bầy của địch vào đội hình Đại đội an ninh nội thành chúng tôi là thử thách đầu tiên và cũng rất khắc nghiệt, nhất là nhiều anh em mới. Nhưng trước thử thách và tổn thất đó không làm cho mọi người nao núng mà còn quyết tâm  để ra chiến trường. Tạm thời đóng quân tại Đại Phước, Ban chỉ huy đại đội, trung đội và tiểu đội vừa làm công tác tư tưởng vừa kiểm tra vũ khí, đạn dược, lương thực... của anh em  ra sao để kịp thời bổ sung. Sau đó cả đơn vị vượt qua đường 100, qua Giao Thủy, xuống Xuyên Thanh, xuống đuôi Gò Nổi để trú quân chờ lệnh của cấp trên tiến vào tiếp quản Đà Nẵng khi quân ta đánh chiếm. Hôm đó đã là 28 Tết Mậu Thân, năm 1968!

Trên đường hành quân, chúng tôi được tin  một số đơn vị đặc công của Tiểu đoàn thép R20 của ta và Tiểu đoàn V25 đã vào lót ổ trong thành Đà Nẵng,  chuẩn bị  cho việc nổ súng đúng giờ G. Theo kế hoạch của trung ương, cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân ở Quảng Nam-Đà Nẵng sẽ nổ ra vào đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 nhưng đến ngày 30-1, Đặc khu Quảng Đà và Mặt trận 4 nhận được lệnh hoãn giờ nổ súng sang đêm 31-1. Do chiến trường chia cắt, thông tin liên lạc không được đảm bảo, Đặc khu Quảng Đà chỉ kịp thông báo lệnh hoãn giờ G xuống một số địa phương và đơn vị, do đó cuộc tổng tấn công và nổi dậy ở Quảng Đà vẫn diễn ra vào đêm 30 rạng sáng 31. Đúng 2 giờ 20 ngày 31-1-1968, tại thành phố Đà Nẵng, ta đồng loạt tấn công vào các căn cứ của địch. Bị tấn công đồng loạt, bất ngờ ngay trong dịp đón Tết cổ truyền không chỉ ở Đà Nẵng  mà cả Hội An, Vĩnh Điện  bọn địch lúng túng cách đối phó.

Đồng chí Lê Thế Tiệm (bìa phải) chụp ảnh cùng đồng chí Hoàng Văn Lai- Trưởng ban An ninh Đặc khu Quảng Đà tại Cầm Kè- căn cứ Hòn Tàu năm 1971 

Tại Đà Nẵng, bộ đội địa phương, dân quân du kích, các đơn vị đặc công, các đơn vị an ninh vũ trang... phối hợp với lực lượng đấu tranh chính trị, cơ sở cách mạng tại chỗ đã đánh thẳng vào sào huyệt của địch. Tại sân bay Đà Nẵng, căn cứ quân sự bậc nhất của Mỹ-ngụy lúc bấy giờ dùng làm bàn đạp tấn công ra phía Bắc và cả Quân khu I của chúng,  sân bay Nước Mặn, kho xăng Liên Chiểu,  trận địa pháo Thành Vinh, tổng kho hậu cần Bàu Mạc, các căn cứ ở Hòa Cầm, Phước Tường, Ngũ Hành Sơn... quân ta đã tấn công quyết liệt, đánh tan một số tuyến phòng thủ kiên cố bên ngoài, có mũi đã tiếp cận được đường băng sân bay, chiếm giữ trận địa địch. Một số khu vực nội thành Đà Nẵng quân ta tiến công quyết liệt và làm chủ tình hình, mở các đợt phát động phong trào cách mạng, thu hút hàng vạn người tham gia. Khí thế của phong trào cách mạng nổi dậy diễn ra khắp đô thị Đà Nẵng cũng như các vùng lân cận làm cho kẻ địch hoang mang lo sợ.

Tuy nhiên, trong khi bộ đội địa phương, dân quân du kích và lực lượng cách mạng tại chỗ ồ ạt tấn công  tiêu diệt và làm bị thương hàng ngàn tên Mỹ - ngụy, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, chiếm giữ các  trận địa  trọng yếu của địch nhưng sự tiếp viện  các binh đoàn chủ lực của ta không kịp thời, có  đơn vị chưa tập kết  được quân vào vị trí chiến đấu. Khi quân ta đã đánh vào sân bay Đà Nẵng và các khu vực khác ở nội thành thì đơn vị chủ lực mới hành quân tới Điện Thắng, nghĩa là còn cách Đà Nẵng gần 20km. Đơn vị R20- được giao nhiệm vụ đánh vào Sở chỉ huy Quân đoàn I của địch nhưng đêm 30-1, tiểu đoàn không thể vượt sông Cẩm Lệ vì bị địch phát hiện. Chỉ có Trung đội 1 thuộc Đại đội 1 của R20 và 1 Trung đội của Khu III- Hòa Vang vượt được qua sông trước khi địch lập tuyến ngăn chặn, đã vào khu vực chùa Bà Quảng (Hòa Cường). Do vậy, sự hỗ trợ tác chiến không kịp thời, đòn tấn công không đủ mạnh để làm chủ toàn bộ tình hình.

Sau những bất ngờ ban đầu, Mỹ - ngụy  từng bước đã lấy lại bình tĩnh, tập trung quân và hỏa lực quay sang mở các đợt  phản công ta khốc liệt. Các đơn vị chiến đấu phía trước  của ta vừa  tìm mọi cách đánh trả  các đợt tấn công của địch, vừa tìm cách bám trụ để chờ tiếp viện từ  phía  sau. Giành quyền chủ động, kiểm soát tình hình được một thời gian thì  quân ta có lệnh cấp trên rút quân để bảo toàn lực lượng. Khi quân ta rút quân, nhất là các đơn vị chiến đấu rút khỏi Đà Nẵng theo hướng bến Đò Xu thì bị địch tấn công bằng pháo binh, hải quân và không quân  làm cho nhiều đồng chí bị thương và  hy sinh.

 Đồng chí Lê Thế Tiệm (năm 1972, tại Núi Lở- Hòn Tàu)

Do quân ta không làm chủ hoàn toàn Đà Nẵng nên lực lượng an ninh nội thành chuẩn bị tiếp quản Đà Nẵng của chúng tôi đứng chân ở Gò Nổi đến sau Tết Mậu Thân vài ngày là bắt đầu  rút lên vùng B Đại Lộc. Thời điểm này, Mỹ- ngụy điên cuồng mở các đợt tấn công khốc liệt cả trên bộ, trên không. Máy bay địch gầm rú suốt ngày đêm để trinh sát chỉ điểm cho các cuộc bắn pháo cấp tập tầm xa, hoặc cho máy bay  ném bom tọa độ và  rải thảm... Các trận càn với chiến dịch “tìm và diệt” của chúng diễn ra  khắp nơi, nhất là những vùng biên, vùng giải phóng của ta. Đại đội an ninh nội thành của chúng tôi  được lệnh của Ban An ninh Quảng Đà chia thành nhiều bộ phận. Số thì tăng cường cho các đơn vị điệp báo ở nội ô, số lên hậu cứ để xây dựng cơ sở, số bám trụ tại tuyến trước để bảo vệ cơ quan Đảng, các đoàn thể, các đồng lãnh đạo Đặc khu Quảng Đà đang làm nhiệm vụ chỉ đạo...

Tôi và một số anh em bước vào trận chiến đấu mới là làm nhiệm vụ  bảo vệ các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan Đảng  đang đóng quân ở  vùng B Đại Lộc và sau đó là vào khu vực Hòn Tàu. Ngày đêm anh em chúng tôi vừa lo chống càn, chống bom, chống đạn pháo, vừa phải đào hầm bí mật cho cán bộ ta ẩn nấp khi địch càn quét đến. Đây là những năm tháng  có thể nói là vô cùng khó khăn, gian khổ và khốc liệt nhất của cách mạng miền Nam nói chung, ở chiến trường Quảng Đà nói riêng. Cả những đơn vị tuyến trước lẫn tuyến sau đều phải đối mặt liên miên với  các trận càn, các trận phục kích, các đợt bom rải thảm, pháo bầy, chất độc hóa học... của địch; đồng thời cảnh đói cơm, lạt muối, giá rét len lỏi  vào tất cả các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, các đơn vị an ninh võ trang và  đồng bào  ta bám trụ ở các vùng giải phóng...

Nhưng vượt lên tất cả mọi sự hy sinh, gian khổ khốc liệt, mọi người vẫn đồng cam cộng khổ, động viên nhau chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, vì ngày mai miền Nam  sẽ hoàn toàn  giải phóng, Bắc Nam sẽ sum họp một nhà. Riêng Đại đội an ninh nội thành của chúng tôi, khi thành lập để chuẩn bị tiến về giải phóng Đà Nẵng có 120 đồng chí vào mùa Xuân Mậu Thân 1968, thế mà đến ngày 29-3-1975 về Đà Nẵng trong ngày  vui giải phóng hoàn toàn chỉ vỏn vẹn sống sót 7 đồng chí, còn tất cả đã vĩnh viễn nằm lại với đất Mẹ quê hương. Đó là sự hy sinh vô giá, là mất mát lớn lao mà khó có thể nói nên lời, khó có gì bù đắp được.

Đối với  cuộc tấn công và nổi dậy  của quân và dân Quảng Nam – Đà Nẵng nói riêng, toàn miền Nam nói chung vào  mùa Xuân Mậu Thân 1968, tuy không giành được thắng lợi hoàn toàn như mong muốn, nhưng  ta đã tiêu diệt hàng chục vạn quân địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh như máy bay, xe tăng, pháo, tàu chiến các loại, các trận địa rada... trên khắp các chiến trường, nhất là Sài Gòn- Gia Định, Huế, Cần Thơ, Đà Nẵng...

Đồng thời nó  đã mở ra một bước ngoặt mới  vô cùng quan trọng cho cách mạng miền Nam, làm thay đổi cục diện cả trên chiến trường lẫn trên mặt trận ngoại giao. Địch đã phải thay đổi chiến lược từ Mỹ hóa sang Việt Nam hóa chiến tranh và Washington bắt đầu rút  dần quân về nước. Mỹ và  ngụy quyền Sài Gòn buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Paris (Pháp), đồng thời giảm các cuộc ném bom ra miền Bắc... Có thể nói, cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân 1968 chính là cuộc Tổng diễn tập cho quân và dân ta từ các cuộc tấn công quy mô vừa sang quy mô chiến dịch trên  toàn chiến trường, do vậy ta đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm rất bổ ích để sau đó mở tiếp cuộc tấn công Xuân Kỷ Dậu 1969... và  đỉnh cao là Chiến dịch mùa xuân 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Thượng tướng Lê Thế Tiệm tại Hội nghị CA toàn quốc lần thứ 63 

 

Chiến công chung  của quân và dân ta trong cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân 1968 có một phần đóng góp không nhỏ của lực lượng an ninh vũ trang và sau này là lực lượng CA, với phong trào diệt ác, trừ gian, nắm tình hình và mọi âm mưu của kẻ địch, chống tình báo, gián điệp, biệt kích, đấu tranh bảo vệ cơ sở cách mạng và  phát động phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân. Nhất là mùa xuân  năm 1975, những ngày đầu mới tiếp quản các đô thị, các vùng mới giải phóng ở miền Nam nói chung, Quảng Nam- Đà Nẵng nói riêng... với biết bao công việc phải làm dù là rất mới mẻ nhưng lực lượng công an đã làm tốt công tác giữ vững an ninh trật tự, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân trước mọi âm mưu phá hoại thâm độc của kẻ thù trong và ngoài nước.

Nhớ lại cuộc Tổng  tấn công mùa Xuân Mậu Thân cách đây 40 năm càng làm cho mỗi chúng ta thêm tự hào về truyền thống cách mạng kiên cường, dũng cảm, sáng tạo, táo bạo của cha anh trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước để không ngừng khơi dậy ngọn lửa nhiệt tình cách mạng, khí thế quật khởi của Quang Trung-Nguyễn Huệ năm nào vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước  cũng như  giữ gìn  trật tự, bảo vệ vững chắc nền an ninh của  Tổ quốc ngày nay.

Đón giao  thừa  Xuân Mậu Tý  2008 này,  trong lòng mỗi chúng ta thầm biết ơn và  kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong cuộc Tổng tấn công mùa Xuân Mậu Thân năm ấy, cũng như cả hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc do Đảng ta lãnh đạo để  cho đất nước được độc lập tự do, cho mỗi chúng ta có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc và yên bình ngày nay!                   

Đà Nẵng những ngày cuối năm Đinh Hợi

Thượng tướng Lê Thế Tiệm (kể)

Lê Minh Hùng (ghi)